Chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt

Đối với Bến Tre nói riêng và vùng duyên hải đồng bằng sông Cửu Long nói chung, cây dừa được coi là cây của sự sống từ ngàn đời. Điều kiện tự nhiên Việt Nam được đánh giá là rất thuận lợi cho việc phát triển cây dừa nhất là từ vĩ tuyến 20 trở vào. Dừa có thể sinh trưởng trên các loại đất khác nhau, nhưng phát triển tốt trên đất cát có nhiễm mặn nhẹ. Diện tích trồng dừa của Việt Nam hiện nay trên 142.000 ha với năng suất bình quân là 36 – 38 quả/cây/năm, trong đó tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long chiếm 80%, đứng đầu là Bến Tre.
Trong khi nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ dừa của thế giới ngày càng tăng, yêu cầu các sản phẩm từ dừa ngày càng đa dạng, chất lượng cao được ưa chuộng và phục vụ thiết thực cho cuộc sống con người với những công dụng nổi bật được chứng minh khoa học rõ ràng. Chính vì thế, không riêng gì ở Việt Nam, các quốc gia trồng dừa nhiều như Philippines, Thái Lan, Indonesia… phải chú trọng phát triển nghề trồng và chế biến dừa một cách toàn diện và ngày càng đi vào chiều sâu nhằm phát huy tối đa về mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Từ những cơ sở khoa học và nhu cầu thực tế, với mục tiêu đổi mới công nghệ nâng cao giá trị gia tăng cho dừa, nhóm tác giả do TS. Nguyễn Phương dẫn đầu đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt”.

Nguyên liệu sử dụng trong quá trình nghiên cứu là giống dừa ta trồng trại Bến Tre, tuổi quả 11-12 tháng tuổi, thời gian lưu trữ không quá 15 ngày sau khi thu hái. Dừa nguyên liệu được tách bỏ xơ, gáo thu cơm dừa, cơm dừa được loại bỏ vỏ nâu, tiếp theo là các quá trình: rửa, băm, nghiền thô, nghiền mịn, sau đó cho qua máy ép trục xoắn để thu dịch sữa dừa. Dịch sữa dừa được lọc qua lưới lọc có kích thước lỗ dưới 125 mesh để thu dịch sữa dừa tinh (hàm lượng chất béo 22%).
Trong nghiên cứu này, sữa dừa thu được sau khi ép cùi dừa tươi từ quả dừa sẽ được tách pha dầu trên thiết bị ly tâm 3 pha. Ảnh hưởng của các thông số gồm độ loãng của dịch sữa, nhiệt độ dịch sữa trước khi ly tâm, tốc độ vòng quay ly tâm đã được xem xét đến. Công đoạn phân pha (pha nước, pha dầu, pha rắn) có vai trò rất quan trọng quyết định tới chất lượng và hiệu lực thu nhận dầu dừa. Do vậy, nhóm nghiên cứu đã tìm cách phân tách pha trên thiết bị ly tâm 3 pha để vừa thu hồi được dầu lớn, vừa đảm bảo dầu dừa có chất lượng bảo đảm theo tiêu chuẩn cho phép.
Tổng hợp các kết quả cho thấy, sau khi dịch sữa dừa được hòa loãng ở mức 1,5 lần, nhiệt độ của dịch sau khi hòa loãng được điều chỉnh tới 450C, sau đố cho qua máy ly tâm sử dụng tốc độ quay ly tâm lần 1 ở mức 15.000 v/ph, lần 2 ở mức 21.000 v/ph, lần 3 ở mức 24.000 v/ph cho tỷ lệ thu hồi dầu đạt ở mức cao nhất, đạt 99,92%, hàm ẩm dầu chỉ còn 0,08%. Kết quả phân tích cho thấy các chỉ tiêu hóa lý của VCO nghiên cứu đạt theo tiêu chuẩn của APCC và Philippine.

Công nghệ được ứng dụng thành công, lần đầu tiên ở Việt Nam có dây chuyền sản xuất tinh VCO năng suất 5 triệu lít/năm, được đánh giá tiên tiến hàng đầu hiện nay trên thế giới. Sản phẩm VCO được cấp chứng nhận FDA Hoa Kỳ và BRC thực phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường Mỹ và EU.
TS. Nguyễn Phương cho biết, nhờ ứng dụng công nghệ đã tăng cường năng lực xuất khẩu VCO lên 26 lần. Tăng giá trị VCO tăng gấp 3,3 lần so với sản phẩm dầu dừa công nghệ cũ. Dây sản xuất nước dừa năng suất 12.000 lít/giờ, bao gói hộp giấy với 3 loại: 300 ml, 500ml và 1000ml đã được cấp chứng chỉ quốc tế và được thị trường Mỹ và EU đón nhận.
“Ngoài tăng hiệu quả sử dụng nước dừa, phụ phẩm của quá trình chế biến cũng được sử dụng giúp giảm ô nhiễm môi trường, tăng hiệu quả kinh tế tăng khoảng 10 lần so với hiện tại (làm thạch dừa)”, TS. Phương nói thêm về kết quả sau khi phát triển khai 2 dự án: đến nay trái dừa tăng 2 – 2,5 lần. Giúp đỡ phần ổn định cuộc sống cho người dân Bến Tre sống nhờ cây dừa.