Việt Nam là nước chăn nuôi thủy cầm đứng vị trí thứ 2 thế giới về số lượng và có tốc độ tăng trưởng nhiều năm qua bình quân khoảng 8 %, chăn nuôi vịt là một nghề có truyền thống lâu đời ở nước ta và ngày càng phát triển, có được những thành tựu trên là nhờ những tiến bộ về công tác giống, kỹ thuật, thức ăn, quản lý… trong đó đặc biệt chú ý tới công tác giống. Tuy nhiên, hiện nay việc lạm dụng các chất kháng sinh, hormone trong quá trình chăn nuôi gia cầm, thủy cầm đã dẫn đến mất vệ sinh an toàn thực phẩm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây dị ứng, ung thư, rối loạn giới tính, ngộ độc cấp tính. Do đó để sản xuất động vật an toàn, bắt buộc phải có thức ăn an toàn, đồng nghĩa với việc loại bỏ kháng sinh, hormone.
Probiotics (chế phẩm sinh học) bổ sung vào thức ăn chăn nuôi ra đời và trở thành giải pháp hữu hiệu, toàn diện nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra ngành chăn nuôi, tăng hiệu quả chuyển hóa thức ăn, nâng cao sức đề kháng, giảm thiểu tỷ lệ thủy cầm mắc bệnh, tiết kiệm chi phí đầu tư cho thức ăn, thuốc điều trị. Probiotic là hỗn hợp vi sinh vật sống được chọn lựa một cách nghiêm ngặt, khi sử dụng đủ liều lượng thì sẽ đem lại sức khỏe có lợi cho vật nuôi. Probiotic là một lựa chọn thay thế với tiềm năng làm giảm sự gây bệnh nhiễm trùng ở thủy cầm, làm tăng năng suất và tăng khả năng miễn dịch.
Ninh Bình có địa hình thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng mặt nước, trong đó có các mô hình nuôi thủy cầm đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế gia trại, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo cải thiện mức sống cho người dân. Ở Việt Nam nhiều tác giả đã có những nghiên cứu về các enzyme, vi sinh vật có lợi bổ sung thức ăn gia súc, gia cầm nhưng các kết quả nghiên cứu này vẫn còn nhiều hạn chế, cho nên việc áp dụng các sản phẩm sinh học có bản chất là enzyme, vi sinh vật có lợi trong ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi vẫn chưa được cơ sở sản xuất thức ăn quan tâm.

Viện Phát triển Khoa học và Công nghệ Vùng đã thực hiện đề tài “Ứng dụng công nghệ vi sinh sản xuất thức ăn cho vịt nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn, tăng trọng lượng, tăng tỷ lệ đẻ trứng tại cơ sở chăn nuôi gia cầm trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” trong 27 tháng, với mục tiêu: Tuyển chọn được 1-3 chủng vi sinh vật/chế phẩm có khả năng sinh enzyme sử dụng trong sản xuất 02 loại chế phẩm sinh học bổ sung vào thức ăn chăn nuôi vịt thịt super và vịt siêu trứng; Xây dựng mô hình sản xuất chế phẩm sinh học bổ sung vào thức ăn chăn nuôi vịt thịt super và vịt siêu trứng và xây dựng 02 quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học cho vịt thịt super và vịt siêu trứng; Xây dựng 02 mô hình chăn nuôi vịt thịt super và vịt siêu trứng sử dụng thức ăn chăn nuôi có bổ sung chế phẩm sinh học, giảm tiêu tốn thức ăn từ 6 %-10 %, tốc độ sinh trưởng tăng 5-10 %, số lượng trứng tăng 3-8 %.
Các phương pháp nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi nghiên cứu của đề tài là các phương pháp nghiên cứu thông dụng, tiên tiến, hiện đại đang được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu công nghệ vi sinh trong việc phân lập, tuyển chọn tối ưu điều kiện nhân giống các chủng VSV bản địa, phát triển chế phẩm và phương pháp bố trí thí nghiệm thử nghiệm chế phẩm sinh học trên đối tượng vịt thịt super và vịt siêu trứng.
Sau 27 tháng thực hiện, đề tài đã đạt được các kết quả như sau:
- Đã nghiên cứu và hoàn thiện được 02 quy trình sản xuất chế phẩm sinh học bổ sung vào thức ăn cho vịt thịt super và vịt siêu trứng. Chế phẩm sinh học cho 2 giống vịt đều có chứa 03 chủng Lactobacillus plantarum: Bacillus subtilis: Saccharomyces boulardii được phân lập và tuyển chọn từ ruột non, ruột già của vịt, từ đất và đồ ăn lên men trong địa bàn huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình
- Đã xây dựng 01 mô hình sản xuất thử nghiệm chế phẩm sinh học bổ sung vào thức ăn chăn nuôi vịt thịt super và vịt siêu trứng quy mô lên men 30 lít/mẻ. Mô hình đã sản xuất 1000 kg chế phẩm sinh học cho 2 loại vịt siêu trứng và vịt thịt surper đạt tiêu chuẩn: mật độ vi sinh vật ở 108-109 CFU/g. Trong đó chế phẩm sinh học cho vịt siêu trứng đạt 600 kg, chế phẩm sinh học cho vịt thịt super đạt 400 kg
- Đã xây dựng được mô hình quy mô 3000 con vịt thịt super ăn thức ăn hỗn hợp có bổ sung chế phẩm sinh học với công thức phối trộn: Bổ sung 1,3 % chế phẩm sinh học vào thức ăn hàng ngày của vịt. Sau 8 tuần nuôi, tỉ lệ sống: 99,2 %, khối lượng cơ thể: 3,374 kg, tốc độ sinh trưởng tuyệt đối: 100,3 %, khối lượng thịt xẻ: 74,02 %; thức ăn tiêu thụ hàng ngày TB đạt 158,5 g/con/ngày.
- Đã xây dựng được mô hình quy mô 1000 con vịt siêu trứng ăn thức ăn hỗn hợp có bổ sung chế phẩm sinh học, với công thức phối trộn: Bổ sung 1 % chế phẩm vi sinh học vào thức ăn hàng ngày của vịt. Sau 10 tháng nuôi, tỷ lệ sống sót đạt 99 %; Ở tuần đẻ thứ 40, tỷ lệ đẻ đạt 90,85 %, khối lượng trứng TB đạt 70,45 g/quả; năng suất trứng TB đạt 230 quả/mái/40 tuần đẻ.
- Đã đánh giá được hiệu quả kinh tế trong mô hình sản xuất chế phẩm, mô hình sử dụng chế phẩm sinh học bổ sung vào thức ăn chăn nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn so với đối chứng không sử dụng chế phẩm.

Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nghiên cứu về sản xuất chế phẩm sinh học bổ sung thức ăn chăn nuôi cho vịt, góp phần tạo ra các sản phẩm thịt sạch, trứng sạch, nâng cao giá trị sản xuất, làm tăng hiệu quả kinh tế, thực hiện giải pháp chăn nuôi bền vững; tạo ra hướng đi mới cho phát triển sản xuất chăn nuôi theo hướng sạch tại các địa phương, hộ dân và doanh nghiệp; nâng cao đời sống của người dân, tạo công ăn việc làm, tạo niềm tin cho người dân, giúp họ yên tâm sản xuất, xây dựng nông nghiệp và phát triển nông thôn, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Ngoài ra, chế phẩm sinh học bổ sung vào thức ăn giúp tăng hiệu quả quá trình hấp thu dinh dưỡng ở vật nuôi, làm giảm khả năng sinh NH3, tăng hấp thu thức ăn giảm bài tiết chất dinh dưỡng qua phân, tăng sức đề kháng, ức chế và có thể tiêu diệt được các vi sinh vật có hại, làm giảm mùi hôi thối ô nhiễm trong chuồng trại chăn nuôi. Do đó việc ứng dụng chế phẩm sinh học bổ sung vào thức ăn chăn nuôi sẽ góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường, giúp người sản xuất giảm chi phí đầu vào, mặt khác sẽ cung cấp cho thị trường những sản phẩm thịt an toàn, chất lượng.
Theo Viện Phát triển Khoa học và công nghệ Vùng
