Cây bơ (Persea americana Mill.) là cây ăn quả lâu năm có giá trị kinh tế cao, chứa hàm lượng dinh dưỡng phong phú, đặc biệt là chất béo không bão hòa và protein. Ở Việt Nam, cây bơ được trồng phổ biến tại Tây Nguyên, song những năm gần đây đã mở rộng ra một số tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, hạn chế lớn của sản xuất bơ là cơ cấu giống chưa đa dạng, kỹ thuật canh tác và bảo quản sau thu hoạch chưa đáp ứng yêu cầu thị trường. Trước thực tế đó, nhóm thực hiện bao gồm các chuyên gia đến từ Viên Nghiên cứu và Phát triển Vùng, Bộ Khoa học và Công nghệ đã triển khai nghiên cứu nhằm xác định giống bơ có khả năng sinh trưởng tốt, năng suất cao, chất lượng ổn định, đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa.
Vật liệu được dùng trong nghiên cứu là 5 giống bơ trong nước:
Các phương pháp nghiên cứu được nhóm nghiên cứu áp dụng bao gồm: mô tả đặc điểm thực vật theo tiêu chuẩn của Viện Tài nguyên Di truyền Thực vật; theo dõi sinh trưởng, phát triển tán, các đợt lộc; phân tích các chỉ tiêu chất lượng quả (hàm lượng chất khô, đường tổng số, protein, lipit) theo TCVN; xử lý số liệu bằng phần mềm IRRISTAT 5.0. Vật liệu nghiên cứu gồm 5 giống bơ trong nước, trong đó 4 giống thu thập từ Tây Nguyên (TA1, TA5, TA44, TA54) và một giống nhập nội từ Mỹ (Booth7). Mỗi giống được bố trí theo dõi trên 5 cây, đo đếm các chỉ tiêu định kỳ 4 lần/năm.
Các chuyên gia ghi nhận chiều dài lá dao động từ 19,83–21,67 cm, chiều rộng lá từ 8,20–11,07 cm. Hình dạng lá ổn định theo giống, ít chịu tác động bởi điều kiện ngoại cảnh.

Trong các giống khảo nghiệm, TA54 có chiều cao cây và đường kính gốc lớn nhất, tán rộng, biểu hiện sức sinh trưởng mạnh. Booth7 có tán rộng nhất, thuận lợi cho quang hợp và đậu quả. Các đợt lộc xuân, hè, thu đều phát triển ổn định, không có sai khác lớn về chiều dài cành, đường kính cành và số lá giữa các giống.
Kết quả cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các giống. TA54 và TA44 chín sớm (thu hoạch tháng 6–8), TA1 và TA5 chín trung bình (tháng 7–9), Booth7 chín muộn (tháng 10–12). Điều này tạo điều kiện bố trí cơ cấu giống rải vụ, kéo dài thời gian cung ứng sản phẩm.
Năng suất tăng dần theo năm, cao nhất ở giống TA54 (32,56 kg/cây) và Booth7 (27,17 kg/cây) vào năm 2020. TA54 có khối lượng quả lớn nhất (0,66 kg/quả), trong khi Booth7 tuy có khối lượng quả nhỏ hơn nhưng số quả nhiều nhất. Về chất lượng, Booth7 vượt trội với hàm lượng chất khô 27,50%, lipit 19,30% và đường tổng số 5,26%, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.

Nhóm nghiên cứu kết luận rằng giống TA54 và Booth7 có tiềm năng phát triển sản xuất bơ hàng hóa tại Mộc Châu – Sơn La. TA54 nổi bật về năng suất và kích thước quả, trong khi Booth7 ưu thế về chất lượng dinh dưỡng và thời gian chín muộn, góp phần đa dạng hóa sản phẩm. Nhóm thực hiện khuyến nghị tiếp tục đánh giá dài hạn về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế của hai giống này trước khi nhân rộng sản xuất.
Theo Tạp Chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam